Thành Nhà Hồ, 26/12/2024

  • GIỜ THAM QUAN
    • Thời gian đóng/mở cửa
      • Mùa hè: từ 7h00 đến 17h30
      • Mùa đông: từ 7h00 đến 17h00
    • Mức thu phí
      • Người lớn: 40.000đ/lượt
      • Trẻ em (từ 7-12 tuổi): 20.000đ/lượt
    • Địa chỉ liên hệ
      • Văn phòng chính của Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ
      • Địa chỉ: Thôn Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa
      • Điện thoại: 02378.929.181 - 0984.766.852
      • Email: thanhnhahovietnam@gmail.com

  • LIÊN KẾT WEBSITE
  • THỐNG KÊ TRUY CẬP
  • Đang online: 6

    Hôm nay: 245

    Đã truy cập: 1163808

VÙNG ĐẤT BA DON Ở HUYỆN VĨNH LỘC

Xã Vĩnh Yên nằm ở phía tây bắc huyện Vĩnh Lộc. Thiên nhiên đã tạo cho Vĩnh Yên một phong cảnh tuyệt vời.

        Trên có núi có đồi, dưới có sông, có bãi. Đặc biệt, vùng đất An Tôn (nay gọi là Yên Tôn) còn gắn liền với nhiều truyền thuyết, sự kiện trong việc hình thành xây dựng kinh đô triều Hồ. Nơi đây còn nổi tiếng với đặc sản dưa Don. Chạy dài theo bờ bắc sông Mã, vùng Yên Tôn gồm có các thôn: Yên Tôn Thượng, Yên Tôn Hạ và thôn Phù Lưu. Hay còn gọi là ba Don: Don Thượng, Don Hạ và Don Trung. Dãy núi An Tôn nằm dọc theo phía đông của ba thôn. Vùng đất này, thời nhà Trần thuộc động An Tôn, huyện Vĩnh Ninh, trấn Thanh Hóa. Sách Thanh Hóa tỉnh - Vĩnh Lộc huyện chí của Lưu Công Đạo, tri huyện Vĩnh Lộc thời vua Gia Long năm thứ 15 (1816) viết về núi An Tôn: “Núi ở địa phận xã An Tôn, xưa gọi là động An Tôn.

       Núi từ Mang Trình kéo xuống liền men theo Cẩm Hoàng, trải đến Cẩm Nhất, vượt theo sông nước Quảng Bình đến Quan Hoàng, Eo Lê men theo sông mà đổ về. Nham thạch nổi lên thưa thớt, trong núi có động, thạch nhũ nhỏ giọt, nước liên tục nhỏ giọt bốn mùa không thôi. Lại thấy hai ngọn núi đột nhiên hiện lên, thế thật độc lập, giống như hai con voi đang xuống sông. Đứng từ xa mà nhìn về, hình sắc như vẽ, thiên nhiên thật tươi đẹp. Mé trái núi thời Hồ gọi là thành Tây Đô” (1). Để có một làng quê tươi đẹp trù phú rộng rãi như hiện nay, vùng Yên Tôn đã trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển. Các cụ già trong vùng kể rằng, theo tiền nhân truyền lại, tên làng An Tôn đã có hàng ngàn năm trước. Khi cả vùng này còn hoang vu rậm rạp, dân cư xung quanh thưa thớt, dòng sông Mã còn chảy sát chân núi An Tôn, thì làng An Tôn đã có nhiều cư dân sinh sống. 

       Thời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly họp bàn với triều thần, ép vua dời đô về động An Tôn. Triều thần nhiều người phản đối, Khu mật chủ sự thị là Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can “... An Tôn là đất chật hẹp hẻo lánh, cuối nước đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy chỗ hiểm được thôi”(2), Hồ Quý Ly không nghe, vẫn quyết định dời đô. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đinh Sửu (1397). Mùa Xuân, tháng giêng, sai Thượng thư Lại Bộ kiêm Thái Sử lệnh là Đỗ Tỉnh đi xem xét đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập nhà miếu nền xã, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đấy, 3 tháng làm xong”.(3)

       Mặc dù không nằm sát ngay cổng Thành nhà Hồ, từ khi Hồ Quý Ly cho người về xây dựng kinh thành và đóng đô, vùng đất An Tôn từ đó càng phát triển nhộn nhịp. Núi An Tôn là một trong những công trường khai thác đá xây dựng kinh thành. Cũng là nơi tiếp nhận vận chuyển nguyên vật liệu. Kinh đô nhà Hồ tồn tại chỉ 7 năm, sau đó, quân Minh chiếm đóng, rồi có lúc là hành tại của vua Lê - chúa Trịnh, vùng đất An Tôn thực sự là điểm quan trọng, đất lành chim đậu, cư dân phiêu tán từ các nơi dần dần về ở trong vùng thêm đông đúc. Lý giải về việc An Tôn Thượng ở phía dưới, An Tôn Hạ lại ở trên, các cụ già nói rằng: Từ xa xưa chỉ có một làng An Tôn, khi sông Mã còn chảy sát chân dãy núi An Tôn, làng nằm ở phía đông núi. Trải qua thời gian sông lở cát bồi, sông Mã đổi dòng chảy, đã tạo cho vùng đất An Tôn bãi bồi rộng lớn. Dân chuyển dần sang phía tây dãy núi An Tôn cho gần với sông bãi, tránh được gió bấc. Gò thượng nổi trước, lại gần với kinh thành Tây Đô, được gọi là An Tôn Thượng. Gò hạ bồi đắp sau, nên có tên là An Tôn Hạ. Thôn Phù Lưu sau này được tách ra từ hai thôn mà thành. Từ xưa Nhân dân An Tôn (ba Don) Sinh cơ lập nghiệp phát triển rất tốt. Dân sống chủ yếu bằng nghề nông, cây trồng chủ yếu là lúa, ngô, dâu, đậu lạc và rau cải.

       Dân còn có nghề khai thác đá, cát. Cả ba thôn khi xưa đều có nghè, đình. Đương cảnh Thành Hoàng của ba thôn phụng thờ là Cao sơn Thần Tướng Đại Vương và Đương Giang Quản Gia Đô Bác Đại Vương. Các triều vua đều có sắc ban phong mỹ tự.

       Từ An Tôn hạ xuống đến Thọ Đồn, vùng bãi bồi đến nay dài gần 3km, có chỗ rộng đến 600m, diện tích lên đến hàng trăm ha. Hàng năm vào mùa mưa, bãi bồi được tiếp một lượng lớn phù sa màu mỡ, rất thích hợp cho các loại cây trồng, đặc biệt là cây ngô, cây dâu và rau cải. Huyện Vĩnh Lộc không những nổi tiếng là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân lịch sử, nhiều di tích danh thắng, mà nơi đây còn có nhiều đặc sản ngon nổi tiếng từ xưa đến nay, gắn với từng giai đoạn lịch sử. Các cụ xưa có câu: Chè lam Phủ Quảng, dưa Don, cà Giáng, táo Phương Giai, khoai làng Bồng... Dưa Don đã nổi tiếng trong tỉnh từ mấy trăm năm trước.

        Thiên nhiên ưu đãi cho ba Don, Thọ Đồn một bãi phù sa rộng lớn bên bờ sông Mã. Trừ mùa lũ lụt, còn lại các tháng trong năm, bãi bồi phù sa xanh mướt ngô đậu, rau cải dưa. Ở ba Don, rau cải được chọn để trồng bà con gọi là rau cải nứa, có nguồn gốc xuất xứ từ tổng Hồ Nam khi xưa. Cây rau cải nứa rất khác với cải sen hay cải ngọt, cải xanh. Cây cải nứa thân chỉ nhỏ bằng chiếc đũa, rau ít phân nhánh. Sau mùa mưa từ cuối tháng 9 âm lịch, chờ cho bãi đất khô, nông dân lại làm đất để gieo trồng ngô và rau cải. Khi tỉa ngô, để tận dụng đất phù sa màu mỡ, bà con nông dân gieo xen rau cải dưa. Trên những luống ngô, đất tốt bãi bồi mát, rau cải lên nhanh như thổi, khi tới kì vun gốc cho ngô thì bà con nông dân cũng đồng loạt nhổ dưa thu hoạch, lúc này cây dưa đã cao, thân vàng những ngồng hoa chúm chím, gọi là cải ngồng. Dưa nhổ lên, đã có các thương lái đến tại bãi mua rồi phân phối đi các nơi. 

       Dưa Don, cách muối cũng đơn giản như các loại dưa cải khác. Muốn ăn nhanh thì khi muối cho nước thêm lá hành, đường trắng, ớt để mau chua, tăng vị ngọt.

       Ngoài cách muối để nhanh ăn, Nhân dân trong vùng còn có cách muối trường để dưa ngon và ăn được lâu. Dưa cải Don mua về, phơi trong mát một ngày cho héo, sau đó nhặt rửa sạch, để ráo nước, để nguyên cả cây, dùng chum sành hoặc vại to để muối. Lèn dưa vào vại, cứ một lớp dưa lại vảy đều một lớp muối hạt to. Khi đã muối dưa đầy chum vại, trên miệng vại lót vỉ tre, phủ kín bằng lớp rơm nếp đã rửa sạch phơi khô. Dùng đá cuội to để nén cho thật nặng mau nổi nước tự nhiên. Sau muối khoảng 15 ngày thì dưa đã chín vàng thơm ngon. Dưa Don muối kiểu này càng để lâu càng ngon, ăn cả cái lẫn nước. Khi ăn lấy dưa ra cắt khúc vừa ăn, bầy vào đĩa, mùi dưa thơm đặc trưng, mầu dưa vàng như chạch, nhìn đã thấy thèm, dưa Don ăn với thịt luộc ba chỉ, chấm nước mắm ớt. Ngày Tết ăn kèm với thịt đông, Dùng dưa kho với cá đồng, ăn dưa còn thích hơn ăn cá. Thật là món ăn dân dã đơn sơ nhưng thật đầm ấm, đã ăn một lần thì không quên được. Các cô gái ở vùng dưa, lấy chồng xa quê, khi về thăm nhà, lúc đi kiểu gì cũng nhổ rau cải dưa mang theo. Có cô còn xin cả vại dưa muối trường. Bãi bồi ven sông Mã ở xã Vĩnh Yên, có lớp đất phù sa pha cát rất dày. Nhưng đất của làng Yên Tôn Thượng lại tốt hơn cả. Trồng dưa đầu tiên và nhiều nhất, bắt nguồn từ làng Don Thượng. Dưa cải có thể gieo trồng quanh năm. Nhưng tốt nhất vẫn là vụ đông và vụ xuân. Nếu thời tiết thuận lợi, được mùa, được giá, dưa cải Don cũng có một khoản thu nhập đáng kể. Song hiện nay diện tích gieo trồng dưa Don, đang dần bị thu hẹp, giá rẻ lại không năng suất bằng các loại rau cải cuốn. Chính quyền địa phương cũng rất tạo điều kiện cho nông dân, tuyên truyền hướng dẫn phổ biến khoa học kĩ thuật, để mở rộng diện tích trồng cây rau cải theo hướng chuyên canh. Rau dưa cải là cây trồng đặc thù của ba Don từ nhiều đời nay, là món ăn truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên vì làng ở ngoài đê bãi ven sông, nên cũng gặp rất nhiều hệ lụy. Có những năm phải chạy mấy lần lũ lụt, rau mầu mất trắng. Người nông dân một nắng hai sương với đồng bãi, khắc phục khó khăn về thời tiết. Sống chung với lũ lụt, Bà con nông dân vẫn duy trì cây rau mầu truyền thống, nhất là cây rau cải Don đã làm nên một thương hiệu từ xưa.

        Là niềm hoài mộng của Nhân dân trong vùng. Hy vọng trong một tương lai không xa, vùng kẻ Don sẽ nổi tiếng như xưa, với thiên nhiên thuận lợi, trên bến dưới thuyền, núi động hùng vĩ, sẽ là vùng chuyên canh cây dưa Don đặc thù truyền thống, sản phẩm có đầu ra ổn định, hiệu quả kinh tế. Để đánh thức tiềm năng, Ban quản lý Trung tâm Bảo tồn di sản Thành nhà Hồ, mở thêm tua cho khách vào tham quan núi động An Tôn; Tìm hiểu công trường khai thác đá xây dựng kinh đô nhà Hồ hơn sáu trăm năm trước; Thăm hang Nàng, tương truyền khi Hồ Quý Ly thay thế nhà Trần, đã an trí vua Trần Thiếu Đế (Trần Án) ở đây, cùng với các nàng hầu, cho đến lúc chết. Dân làng đặt tên là hang Nàng. Khách du lịch sẽ xuống thăm cánh bãi của ba Don, Thọ Đồn rộng ngút ngát, tham gia gieo trồng thu hoạch với nông dân để trải nghiệm. Vào thăm các ngôi đình cổ, tìm về cội nguồn với những bản sắc phong bằng chữ Hán từ mấy trăm năm nay vẫn còn nguyên mầu mực. Lễ hội Thành hoàng truyền thống đầu xuân, với các điệu múa văn hóa dân gian. Được nghe lại những câu ca dao: 

 Hỡi cô có thắt lưng xanh
 Có về Don Thượng với anh thì về
 Don Thượng có Sập nằm kề
 Có sông tắm mát lại kề bãi ngô.

Tác giả. Nguyễn Huy Miên
Chi hội Khoa học Lịch sử Tây Đô

Trích từ Tạp chí Thanh Hoá Xưa & Nay

Tập 22 (5/2021)

 Chú thích:
(1) Lưu Công Đạo, Thanh Hóa tỉnh - Vĩnh Lộc huyện chí (2012), Biên dịch: Nguyễn Văn Hải - Nxb Thanh Hóa, trang 31.

(2) Đại Việt Sử ký toàn thư tập 1 (2004), Nxb Văn hóa Thông tin, trang716.

(3) Đại Việt Sử ký toàn thư tập 1, (2004), Nxb Văn hóa Thông tin, trang 715.
 
 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH NHÀ HÔ

Địa chỉ: Vĩnh Tiến, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa

Điện thoại: 02378.929.181 - Email: thanhnhahovietnam@gmail.com

Website hiện đang trong quá trình thử nghiệm