Thành Nhà Hồ, 22/12/2024

  • GIỜ THAM QUAN
    • Thời gian đóng/mở cửa
      • Mùa hè: từ 7h00 đến 17h30
      • Mùa đông: từ 7h00 đến 17h00
    • Mức thu phí
      • Người lớn: 40.000đ/lượt
      • Trẻ em (từ 7-12 tuổi): 20.000đ/lượt
    • Địa chỉ liên hệ
      • Văn phòng chính của Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ
      • Địa chỉ: Thôn Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa
      • Điện thoại: 02378.929.181 - 0984.766.852
      • Email: thanhnhahovietnam@gmail.com

  • LIÊN KẾT WEBSITE
  • THỐNG KÊ TRUY CẬP
  • Đang online: 13

    Hôm nay: 1170

    Đã truy cập: 1159587

DI SẢN VĂN HÓA THÀNH NHÀ HỒ VỚI VIỆC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA CHO THẾ HỆ HỌC SINH, SINH VIÊN

Nhà nước, các cấp chính quyền và nhân dân Thanh Hóa đã có nhiều giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích, trước hết là đối với việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa cho thế hệ trẻ và góp phần phát triển kinh tế du lịch.

1. Khái quát về  giá trị lịch sử - văn hóa của di sản Thành Nhà Hồ

       Chỉ vẻn vẹn vài dòng chép trong Đại Việt sử ký toàn thư đã cho chúng ta biết về Thành Nhà Hồ: “Năm Đinh Sửu, mùa xuân, tháng Giêng, sai Lại bộ Thượng thư Đỗ Tỉnh đi xem đất và đo đạc động An Tôn, phủ Thanh Hoá, đắp thành, đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời đô đến đó, ba tháng thì công việc hoàn tất”.

       Hơn 600 năm, trải qua bao biến cố, thăng trầm lịch sử, thử thách khốc liệt của thời gian, thời tiết và con người, những cung điện, nhà ngục, nhà kho, vọng gác… xưa chỉ còn lại những dấu vết, nhưng vẫn còn đó một toà thành đá sừng sững, vững chắc, với 4 cổng Tiền, Hậu, Tả, Hữu bề thế… đã minh chứng cho sự bền bỉ, sức sáng tạo phi thường của cha ông ta. 

       Thành Nhà Hồ được xây dựng vào cuối thế kỉ XIV, là một tòa thành được xây dựng khá độc đáo, tiêu biểu cho thành tựu kiến trúc Việt Nam thời xưa. Đó một di tích thành lũy quân sự chưa hề thấy ở một nơi nào khác trên đất nước ta.

       Ra đời trong bối cảnh lịch sử chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Minh đang lăm le xâm lược và việc dời kinh đô, vì vậy Thành Nhà Hồ trước hết là một công trình quân sự mang tính thủ hiểm.

       Cũng giống như các thành luỹ khác như: Cổ Loa, Hoa Lư, Thăng Long, thành nhà Mạc... trong quá trình xây dựng thành Tây Đô, Hồ Quý Ly đã khéo léo lợi dụng triệt để địa hình vùng núi An Tôn, tạo nên những vòng thành thiên nhiên, bảo vệ vững chắc cho Hoàng thành vốn được xây dựng hết sức kiên cố. Vòng thành tự nhiên đó chính là hệ thống đồi thiên nhiên, con sông Mã ở phía Tây và sông Bưởi ở phía Đông chảy tới, hình thành tuyến phòng ngự tự nhiên khép kín nơi tiền duyên thật hoàn hảo.

       Những vòng đai phòng ngự tự nhiên ở vòng ngoài bằng đồi, núi, sông kết hợp với La thành bằng tre gai ở giữa và vòng trong là con hào vừa rộng vừa sâu có rải chông, hẳn là những chướng ngại vật đáng sợ đối với quân giặc trước khi phải đối mặt với tường thành bằng đá vững chãi. Xây thành ở vị trí đó, với chiến lược thủ hiểm, họ Hồ quả là có con mắt của một nhà quân sự!

       Xây dựng vào cuối thế kỷ XIV, khi lịch sử xây dựng thành luỹ của ông cha đã đi qua một chặng đường dài mười mấy thế kỷ, Thành Nhà Hồ được kế thừa tất cả những tinh hoa đúc kết trong kỹ thuật xây dựng thành, đồng thời đã thể hiện tài năng, sáng tạo của con người Việt Nam, đánh dấu bước tiến vượt bậc trong kỹ thuật xây dựng thành luỹ. 

       Trước tiên là sự khác biệt trong chất liệu xây dựng thành. Nếu như thành Cổ Loa được xây dựng bằng đất và đá cuội, thành Hoa Lư đắp từ đất, gạch, phần móng có kê đá tảng và đóng cọc gỗ lớn, thành Thăng Long cũng bằng gạch, có vòng La Thành đắp đất thì Thành Nhà Hồ hoàn toàn khác. Chất liệu chính xây dựng công trình quân sự này là những khối đá xanh khổng lồ đẽo vuông thành sắc cạnh, được dựng khắp bốn mặt tường thành. Đó là một hiện tượng chưa hề gặp ở bất cứ một công trình kiến trúc quân sự cổ nào trên đất nước ta. Sau này, các thành luỹ khác như: Đông Kinh tuy cũng được xây bằng đá nhưng không phải là đá khối kích thước lớn, một số đoạn được xây dựng bằng chất liệu là gạch. Thành Xích Thổ tiêu biểu cho nhà Mạc lại được đắp bằng đất, kè đá bên ngoài, và có sử dụng vôi vữa làm chất kết dính (đá kè bên ngoài lấy từ các núi đá vôi gần đó, thường to bằng chiếc mũ hoặc lớn hơn). Như vậy, thành Tây Đô được xây dựng từ loại vật liệu vững nhất đương thời là đá xanh với kích thước rất lớn. Do đó, đây chính là công trình quân sự bền vững nhất trong số các thành luỹ Việt Nam. 

       Bên cạnh đó, kỹ thuật xây thành cũng có sự khác biệt. Chính yếu tố nguyên liệu đã quyết định phần lớn kỹ thuật xây dựng một công trình. Nếu như các thành như Cổ Loa, Hoa Lư, Thăng Long sử dụng các vật liệu là: Đất, gạch, đá cuội, đá viên... thì vấn đề kỹ thuật xây thành không có gì đặc biệt. Còn ở thành Tây Đô, nét đặc sắc là ở phần ốp bên ngoài tường thành những khối đá lớn được đẽo vuông vức, xếp chồng lên nhau theo hình chữ công, tạo thành vách thẳng đứng, mà không có mạch vữa. Những khối đã này có kích cỡ trung bình: 2,2m x 1,2m x 1,5m, nặng khoảng 10 tấn. Cá biệt có khối đá khổng lồ cạnh cổng phía Tây nặng khoảng hơn 20 tấn. Đi dọc bốn phía thành, nhìn những phiến đá lớn chồng khít lên nhau, tạo thành bức tường đồ sộ, chúng ta không khỏi đặt ra câu hỏi thắc mắc rằng: Làm thế nào người xưa đã có thể vận chuyển đá từ công trường về nơi xây dựng và nâng lên cao những khối đá lớn như vậy, trong điều kiện lao động thủ công và trong một thời gian rất ngắn? Những biện pháp đơn giản mà hiệu quả, được phỏng đoán là sử dụng để đưa đá từ xa về và nâng lên cao như: Phương pháp dùng “cộ”, “bi” đắp đất thoai thoải, kỹ thuật xây vòm cuốn không cần chất kết dính... đã chứng tỏ óc sáng tạo tuyệt vời, bàn tay tài hoa và khả năng lao động bền bỉ của con người Việt Nam cuối thế kỷ XIV. Phương pháp này trước đó chưa từng sử dụng trong xây dựng thành ở Việt Nam. Nó khiến ta liên tưởng tới cách mà người Ai Cập xưa đã sử dụng để vận chuyển đá xây những kim tự tháp vĩ đại.

       Không bàn gì về những lan can chạm rồng bằng đá, những viên gạch hoa nhiều vẻ lát nền hoặc trang trí... nghĩa là đã lược bỏ những phần mỹ thuật trang trí của các cung điện trong nội thành, ta vẫn thấy Tây Đô đã đạt tới đỉnh cao của một công trình kiến trúc. 

       Trong khi chưa có điều kiện khai quật nhiều, chỉ quan sát tường thành và những cổng cuốn vòm đồ sộ đã thể hiện mẫu mực về việc dùng các khối đá lớn để dựng thành. Trước Thành Nhà Hồ nhiều thế kỷ, từ thời Lý, tổ tiên ta đã từng dùng đá cứng làm tượng và bệ chân cột ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), làm bậc cửa và xây chắn các tầng nền ở chùa Vĩnh Phúc, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), làm chân tháp như ở Chương Sơn và Phổ Minh (Nam Định). Nhưng phải đến Thành Nhà Hồ thì đá mới được sử dụng rộng rãi và kiến trúc rất tài tình, đẹp mắt lại vô cùng bền vững.

       Kỹ thuật xây tường thành và xây cả vòm cuốn còn cho thấy, không cần vôi vữa làm chất kết dính mà chỉ cần gia công cho đá thành từng khối thích hợp, được đặt đúng chỗ thì tự trọng lượng của chúng sẽ ép gắn chặt theo hình múi bưởi. Thời gian đã khẳng định sự vững vàng của kỹ thuật xây dựng thành này, và càng xác định vẻ đẹp trong từng khối đá và đường ghép.

       Như vậy, cùng với những công trình kiến trúc tiêu biểu của Việt Nam thời trung đại như: Chùa Diên Hựu, tháp Phổ Minh, kinh thành Thăng Long, thành Đông Kinh... thành Tây Đô xứng đáng đứng vào vị trí một trong những tác phẩm kiến trúc hàng đầu ở nước ta. Khi nghiên cứu về nghệ thuật Việt Nam, nhận xét về thành Tây Đô, L.Bezacier - một nhà nghiên cứu người Pháp đã khẳng định: “Chúng tôi kết thúc bằng cách nhấn mạnh rằng công trình này là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc An Nam”.

       Đối với nền văn hoá khu vực, công trình kiến trúc Tây Đô cũng có một vị trí trang trọng. Nếu như ĂngCoVat mang tầm vóc di sản thế giới, là đỉnh cao, là kết tinh của hơn 300 năm phát triển loại hình Đền núi Khơme, nếu Bônôbudu là một tác phẩm kiến trúc đồ sộ, một công trình tưởng niệm Phật giáo thì Tây Đô cũng mang vẻ đẹp độc đáo riêng: Đó là thành luỹ quân sự kiên cố nhất, với kỹ thuật xây dựng tài tình thể hiện sức lao động bền bỉ của con người Việt Nam.

       Thành Tây Đô ra đời cũng chứng tỏ nghệ thuật Việt Nam nói riêng, nghệ thuật Đông Nam Á nói chung, tuy chịu ảnh hưởng từ hai nền văn hoá lớn của nhân loại là văn hoá Trung Hoa và văn hoá Ấn Độ, nhưng vẫn tồn tại một nền văn hoá bản địa với sức sống mãnh liệt. Riêng đối với nghệ thuật kiến trúc thành luỹ, phải tới thế kỷ XV, Việt Nam mới chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc ở việc áp dụng một số cách xây dựng Trung Hoa như: Hoả hồi, cửa thành bao, tường bắn, ụ bắn... Tuyệt nhiên, thành của Việt Nam không thể lẫn với thành Trung Quốc. Với thành Tây Đô, tuy sử dụng một số kỹ thuật thành thông dụng nhưng vẫm đậm tính độc đáo của riêng nó: Ở chất liệu xây dựng, kích thước, cách cải thiện tự nhiên...

       Chính vì vậy, Thành Nhà Hồ là một trong số ít di tích lịch sử (DTLS) được xếp hạng trọng điểm quốc gia đợt đầu tiên: Năm 1962. Đặc biệt, ngày 27/6/2011, tại thủ đô Pari (Cộng hòa Pháp), phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thuộc Tổ chức Khoa học giáo dục thế giới (UNESCO) đã nhất trí bầu chọn Thành Nhà Hồ là Di sản văn hóa thế giới. Thành Nhà Hồ giờ đây trở thành niềm tự hào của nhân dân xứ Thanh và cả nước.

2. Với việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa cho học sinh, sinh viên

       Khu DTLS Thành Nhà Hồ là di sản văn hóa quý báu của dân tộc và cả nhân loại. Trong dạy học lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương ở trường phổ thông, đây vừa là nguồn sử liệu vật chất có thật, quý hiếm, có ý nghĩa bổ sung, cụ thể hóa, làm phong phú thêm tri thức lịch sử đã học, vừa là một phương tiện trực quan có hiệu quả cao trong dạy học lịch sử, góp phần phát huy quá trình hoạt động tư duy, giáo dục truyền thống dân tộc, quê hương, giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên, qua điều tra thực tiễn, số lượng khách là học sinh, sinh viên đến tham quan, học tập tại khu di tích lịch sử chưa nhiều. Rất ít các trường phổ thông tổ chức giờ học lịch sử tại khu di tích.

       Kinh nghiệm sử dụng DTLS trong công tác nghiên cứu khoa học, giáo dục thế hệ trẻ của các nước tiên tiến trên thế giới, của ông cha ta từ xa xưa đã để lại những bài học quý báu có thể áp dụng vào quá trình dạy học lịch sử hiện nay.

Các em học sinh trường THPT Vĩnh Lộc tham gia chương trình Rung chuông vàng  với chủ đề "Về miền di sản"

       Hình thức, phương pháp sử dụng khu di tích trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải đảm bảo tính khoa học, sư phạm và phù hợp với điều kiện từng trường. Trước hết, nó phải xuất phát từ mục tiêu, nội dung chương trình lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương ở dụng trong dạy học lịch sử (địa điểm, không gian, cảnh quan…). Nguyên tắc cơ bản nhất trong việc sử dụng DTLS-VH là phải đảm bảo tính trực quan sinh động, tính độc lập, sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng tư duy, thực hành bộ môn cho học sinh. Để thực hiện các nguyên tắc trên, nhằm làm cho bài học có hiệu quả, sự chuẩn bị của GV và HS cần chu đáo, biết lựa chọn những hình thức, phương pháp sử dụng phù hợp.

        Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, chúng tôi đề xuất các kiến nghị sau:

       Thứ nhất, trong phân phối chương trình môn lịch sử hiện nay ở trường phổ thông có các tiết lịch sử địa phương, trong đó có nội dung giới thiệu, tham quan các DTLS-VH tiêu biểu của địa phương. Thực tế cho thấy, thực hiện tốt những tiết học này có ý nghĩa nhiều mặt. Vì vậy, việc thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh những tiết học này phải mang tính pháp lệnh, đòi hỏi tất cả các trường phổ thông phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ.

       Thứ hai, các hoạt động ngoại khóa môn học tại các DTLS nói chung, DTLS Thành Nhà Hồ có ý nghĩa to lớn để rèn luyện cho HS thực hành, vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử vào cuộc sống, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước… Nhưng hiện nay, nhiều trường chưa thực hiện, hay cắt xén những hoạt động này… Vì vậy, các trường phổ thông cần tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa trên cho HS. Có thể coi đây là những hoạt động giáo dục bắt buộc.

       Thứ ba, hệ thống tranh ảnh, bản đồ, tư liệu, hiện vật về các DTLS trong SGK lịch sử phổ thông cần được in ấn đẹp hơn, lựa chọn phù hợp hơn. Ngành Giáo dục cần tổ chức biên soạn các tài liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo về những DTLS-VH tiêu biểu của quê hương, đặc biệt di tích Thành Nhà Hồ phục vụ cho dạy học lịch sử kịp thời.

       Thứ tư, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa ngành Giáo dục, với các ngành Văn hóa - Thể thao - Du lịch, ngành Phát thanh, Truyền hình… nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho HS được đến học tập, tham quan khu di tích, thực sự coi đây là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ và cũng là giải pháp quan trọng nhằm gìn giữ, phát huy các giá trị của di sản văn hóa quý báu này.

       Thứ năm, Các trường ĐHSP, trong chương trình đào tạo GV lịch sử cần trang bị cho SV những vấn đề lý luận chung về DTLS-VH, về lý luận sử dụng DTLS-VH trong dạy học lịch sử, tổ chức cho SV các đợt học tập, tham quan tại các DTLS-VH tiêu biểu của dân tộc và quê hương, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học về việc phát huy giá trị các DTLS-VH trong đó có việc sử dụng có hiệu quả trong dạy học lịch sử ở trường THPT./.

Tác giả: PGS.TS. Hoàng Thanh Hải
Trưởng khoa KHXH- Trường ĐH Hồng Đức

Trích từ tạp chí Thanh Hóa Xưa & Nay

Tập 22 (5/2021)

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH NHÀ HÔ

Địa chỉ: Vĩnh Tiến, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa

Điện thoại: 02378.929.181 - Email: thanhnhahovietnam@gmail.com

Website hiện đang trong quá trình thử nghiệm